28/06/2025 07:00 GMT+7 | Văn hoá
Có thể nói, nhà văn Tô Hoài vốn rất ý thức "tu luyện" chữ nghĩa. Trong Sổ tay viết văn (1977), ông kể: "Trong Truyện Kiều có chữ "áy" ("Một vùng cỏ áy bóng tà"), không biết nghĩa chữ áy thế nào, mới đọc đã cảm thấy man mác, thấy buồn.
Phải đến dịp, tôi về Thái Bình, nghe người trong làng nói: "cỏ áy, mạ áy" mới biết tiếng "áy" là của bà con đồng ruộng Quỳnh Côi, quê vợ của Nguyễn Du ở Thái Bình - khi thất thế, Nguyễn Du đã nhiều năm ở quê vợ".
Áy là gì?
Ta còn từ áy khác nhưng không dùng một mình, phải là "áy áy" - khi phát âm thường là "ay áy", diễn tả tâm trạng không đành lòng; còn hiểu theo nghĩa ngần ngại, lo lắng, có ý lo ngại lại là áy náy - truyện thơ nôm Phan Trần có câu: "Cũng đừng áy náy lòng quê/ Bao giờ áo gấm mặc về mới thôi".
Khi đọc Hồng Đức quốc âm thi tập, ta gặp những câu như: "Cỏ áy những nhờ nơi tuyết bén/ Hang sâu nhờ thấy bóng dương soi", "Những rắp mai thanh lồng tuyết nguyệt/ Nào hay cỏ áy bén hơi dương"; trong tiếng Việt cổ, "áy" còn có nghĩa là úa vàng, héo úa, ua úa.
Tuy nhiên, không chỉ có nghĩa này, ta thử nhìn từ câu thơ trong Bạch Vân thi tập: "Ruộng hiềm đất áy cày chưa chín/ Sách được câu thần dạ những ngong". Ngong chính là ngóng/ ngong ngóng nghĩa là nghểnh cổ mong ngóng, mong đợi.
Ảnh minh hoạ: Internet
Còn đất áy là gì?
Trước hết, xin nói, "chín/ cày chưa chín" là hiểu theo nghĩa chỉn chu, kỹ lưỡng, hoàn chỉnh, chu toàn, đạt đến mức hoàn thiện, thí dụ có câu tục ngũ: "Một nghề chín hơn chín mười nghề", cũng là chín nhưng nghĩa của hai từ khác nhau, một bên chỉ về sự lành nghề, một bên chỉ về số lượng. Ta sực nhớ, trong dịp kén rể cho con gái Mỵ Nương, vua Hùng thứ 18 đã ra yêu cầu sính lễ đối với Sơn Tinh và Thủy Tinh: "Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao". Trên đời này biết tìm đâu ra? Thế mà có, bởi chín trong ngữ này phải chăng không phải số lượng mà chính là chỉ chất lượng đã đạt đến mức cực đỉnh, "vàng mười", "đỉnh của chóp", thuộc hạng "super"?
Vậy, "đất áy" nghĩa là sao? Ta có thể suy luận, nếu "cỏ áy" là cỏ úa thì "đất áy" chính là đất không màu mỡ, là đất cằn cỗi, đất xấu, đất bạc màu. Loại đất áy này, người ta còn dùng từ khác nữa, thí dụ trong "Tịch cư ninh thể phú" của Nguyễn Hãng thời Hậu Lê có câu cực hay: "Xó xỉnh góc trời, mom đất, một bầu thu cảnh mọn hẹp hòi/ Áy o ruộng núi vườn đèo, bốn mùa đủ thú vui cọc cạch".
Đất "áy o" chính là đất "áy". Xin cắc cớ hỏi thêm, nếu "áy" hiểu theo nghĩa trên phổ biến ở ngoài Bắc, còn trong Nam lại có nghĩa gì? Thí dụ, khi một khi ai đó nhận xét: "Món đó đã áy mùi, sao lại đụng đũa, bộ muốn tào tháo rượt à?". Đúng lắm vì món ăn đó quá "đát", đã thiu, bằng chứng là đã dậy mùi chua, rữa, vữa, hôi, hẩm không còn giữ được mùi vị ban đầu. Đại Nam quấc âm tự vị (1895 ghi nhận: "Áy: có mùi chua".
Từ bao giờ, từ "áy" không còn sử dụng theo những nghĩa vừa nêu? Nếu căn cứ vào "Việt Nam tự điển" (1931) do Hội Khai trí Tiến đức khởi thảo, chúng ta không thấy ghi nhận. Chi tiết này, có thể góp phần lý giải vì sao một nhà văn bậc thầy về chữ nghĩa như Tô Hoài có lúc không hiểu nghĩa từ "áy" trong câu thơ "Một vùng cỏ áy bóng tà". Và chính ông cũng cho biết: "Phải đến dịp, tôi về Thái Bình, nghe người trong làng nói: "cỏ áy, mạ áy".
Vậy, từ trái nghĩa với "áy/ mạ áy", bà con nông dân nơi ấy dùng từ gì? Rất ngạc nhiên, khi Tô Hoài cho biết hai từ ấn tượng, chan chứa tình cảm: "mạ ngồi". Với từ ngồi, ta lập tức liên tưởng đến nhiều thành ngữ và hiểu ngay nghĩa của nó như "Ngồi mát ăn bát vàng", "Ngồi ngây như tượng gỗ", "Ngồi trên giếng mà khát nước"… Ngồi là thể hiện tư thế, ít ra lưng phải thẳng, nhô cao, trái ngược với nằm/ nằm dài - khi dùng từ ngồi cho mạ ngồi, ta thấy rõ ràng nó hoàn toàn khác với mạ áy là ủ rủ, rủ xuống, héo úa bởi mạ ấy đang tươi, đang nhú lên, vươn lên…
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất