04/06/2025 11:00 GMT+7 | Văn hoá
Để thúc đẩy, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, đòi hỏi một hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện, đồng thời có tính đột phá nhằm tạo xung lực mới, hiệu quả mới.
Quản lý công nghiệp văn hóa rất cần đổi mới chính sách và tư duy theo hướng kiến tạo phát triển, tích hợp đa ngành, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị sáng tạo dựa trên dữ liệu và hiệu quả đầu ra.
Áp dụng một khái niệm mới
Theo TS Nguyễn Thị Phương Hòa, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VH,TT&DL), trước hết, cần thay đổi nhận thức và áp dụng khái niệm các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo theo xu hướng quốc tế, nhằm chuyển từ hoạt động văn hóa nghệ thuật sang sản xuất các sản phẩm nội dung dựa trên quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Cùng với đó, cần hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý nhà nước theo hướng kiến tạo, phục vụ phát triển, xây dựng và sửa đổi các luật liên quan đến văn hóa, sở hữu trí tuệ, đầu tư, thuế, công nghệ thông tin… để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp văn hóa. Việc bảo vệ bản quyền trong môi trường số phải được thực thi hiệu quả, cân bằng quyền lợi giữa người sáng tạo và công chúng.
Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa cần gắn kết chặt chẽ với các chiến lược kinh tế xã hội khác, đồng thời tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong đầu tư và phát triển các thành phố sáng tạo, tạo động lực phát triển công nghiệp văn hóa tại địa phương.
Để tăng cường sức mạnh mềm, Việt Nam cần chủ động đăng cai các sự kiện quốc tế quy mô lớn. Trong ảnh: Khai mạc Liên hoan phim quốc tế Hà Nội (HANIFF) 2024 với khẩu hiệu “Điện ảnh: Sáng tạo - Cất cánh”. Ảnh: TTXVN
Về tài chính, cần tăng đầu tư cho văn hóa, sử dụng các công cụ tài chính, ưu đãi thuế và huy động nguồn lực xã hội. Quốc hội đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035, tạo cơ sở cho sự chuyển biến mạnh mẽ. Cần xây dựng các quỹ hỗ trợ chuyên ngành và áp dụng các chính sách ưu đãi thuế, đồng thời phát triển các hình thức huy động vốn xã hội như gọi vốn cộng đồng.
Về thị trường, Nhà nước đóng vai trò tạo lập thể chế, hạ tầng và quản lý hoạt động văn hóa, đồng thời hỗ trợ phát triển thị trường văn hóa qua các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại, mở cửa đầu tư nước ngoài có kiểm soát và xây dựng cơ sở dữ liệu thị trường văn hóa để định hướng phát triển.
Chuyển đổi số và phát triển văn hóa số là xu hướng tất yếu. Việt Nam đã ban hành các nghị quyết, chương trình chuyển đổi số quốc gia, đồng thời thử nghiệm các mô hình văn hóa số như nhà hát trực tuyến, bảo tàng số… Cần xây dựng chiến lược văn hóa số đồng bộ, ứng dụng công nghệ hiện đại để phát triển sản phẩm văn hóa số, kết nối chặt chẽ với ngành công nghệ thông tin nhằm tận dụng cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0.
Cuối cùng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt. Cần cải cách giáo dục toàn diện, phát triển tư duy sáng tạo và kỹ năng số từ phổ thông đến đại học, tăng cường liên kết giữa đào tạo và thực tiễn ngành công nghiệp văn hóa, đồng thời bồi dưỡng kỹ năng kinh doanh, quản lý, bản quyền và ngoại ngữ cho người làm văn hóa nghệ thuật.
Những giải pháp này nếu được triển khai đồng bộ sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Cũng theo bà Hòa, để xây dựng khuôn khổ pháp lý triển khai các hoạt động giao lưu hợp tác, Việt Nam đã tích cực xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế bằng việc đàm phán và ký kết khoảng 70 điều ước, thỏa thuận quốc tế cấp bộ từ năm 2015 đến nay. Trong thời gian tới, bên cạnh việc ký kết các văn bản khung về hợp tác văn hóa, cần thúc đẩy đàm phán các hiệp định đồng sản xuất với các nước có nền công nghiệp điện ảnh phát triển.
Để tăng cường sức mạnh mềm, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư nâng cao sự hiện diện tại các sự kiện văn hóa nghệ thuật uy tín trong khu vực và quốc tế, đồng thời chủ động đăng cai các sự kiện quốc tế quy mô lớn.
Việc này giúp tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú văn hóa dân tộc và giới thiệu các sản phẩm văn hóa chất lượng cao, xây dựng thương hiệu quốc gia hướng tới xuất khẩu.
Nhà nước cũng cần đầu tư để Việt Nam tham gia định kỳ và bài bản tại các kỳ World Expo, Venice Biennale, Milan Triennale... Trong ảnh: Số lượt khách tham quan Triển lãm Thế giới World Exposition tại Osaka (Nhật Bản) đã vượt mốc 1 triệu sau 13 ngày mở cửa. Ảnh: TTXVN
Các địa phương cần phát triển thương hiệu riêng như Hà Nội với Liên hoan Thiết kế sáng tạo Việt Nam (VFCD), Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội, Liên hoan phim quốc tế Hà Nội…; Huế với Festival Huế, Festival làng nghề truyền thống; Đà Lạt với Lễ hội hoa và các chương trình âm nhạc uy tín… Nhà nước cũng cần đầu tư để Việt Nam tham gia định kỳ và bài bản tại World Expo, Venice Biennale, Milan Triennale, Liên hoan phim Cannes, Liên hoan phim Berlin...
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần chủ động tham gia và đảm nhiệm các vị trí trong các tổ chức quốc tế, thiết chế đa phương về văn hóa như Ủy ban Liên chính phủ các công ước UNESCO, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)... Qua đó, Việt Nam thể hiện vai trò dẫn dắt, tham gia xây dựng, sửa đổi luật lệ và định hướng phát triển chung, khẳng định vị thế của các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
Kiện toàn chính sách
Đưa ra định hướng và giải pháp xây dựng chính sách cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, PGS-TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, để phát triển công nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới, cần xác lập quan điểm chiến lược rõ ràng, đưa văn hóa thành trụ cột phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số toàn diện. Công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế đặc thù, giàu giá trị gia tăng, cần được ưu tiên đầu tư ngang hàng với các ngành mũi nhọn khác, nhằm đa dạng hóa xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.
"Phát triển công nghiệp văn hóa phải gắn với giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, khơi dậy nội lực văn hóa để tạo ra sản phẩm sáng tạo độc đáo, phản ánh chiều sâu văn hóa và trí tuệ Việt Nam, không chỉ đơn thuần thương mại hóa hoặc sao chép mô hình nước ngoài" - ông Sơn nhấn mạnh.
Thành công đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, liên cấp, trong đó Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, doanh nghiệp là trung tâm sản xuất và phát triển thị trường, cộng đồng sáng tạo là chủ thể đổi mới, còn người dân vừa là người tiêu dùng vừa là người bảo vệ bản sắc văn hóa. Cần thiết lập cơ chế hợp tác công - tư - xã hội hóa toàn diện, phát huy vai trò của địa phương, đô thị sáng tạo, trường đại học và tổ chức nghề nghiệp.
Để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, theo ông Sơn, Việt Nam cần thiết lập một hệ thống chính sách phát triển công nghiệp văn hóa mang tính liên ngành, dài hạn và linh hoạt, đặt trên nền tảng bản sắc văn hóa dân tộc, công nghệ số và xu hướng tiêu dùng mới.
Những trụ cột cần được ưu tiên
Theo PGS-TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, cần ưu tiên đầu tư và triển khai 7 trụ cột chính sách chiến lược sau đây:
1) Hoàn thiện thể chế và pháp luật: Xây dựng Luật Công nghiệp văn hóa tích hợp các lĩnh vực liên quan, ban hành chiến lược phát triển giai đoạn 2025 - 2045 gắn với chuyển đổi số và tăng trưởng xanh, thiết lập cơ chế điều phối liên ngành cấp quốc gia.
2) Phát triển hạ tầng và không gian sáng tạo: Đầu tư khu công nghiệp văn hóa, trung tâm sáng tạo quốc gia, mạng lưới không gian sáng tạo cộng đồng, đưa phát triển công nghiệp văn hóa vào quy hoạch đô thị và xây dựng thành phố thông minh.
3) Chính sách tài chính và khuyến khích doanh nghiệp: Thành lập các quỹ hỗ trợ sáng tạo, áp dụng ưu đãi thuế, tín dụng, thúc đẩy hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng và tổ chức sự kiện văn hóa quốc tế.
4) Đào tạo nguồn nhân lực sáng tạo: Xây dựng chương trình giáo dục xuyên cấp, thiết lập trung tâm đào tạo chuyên sâu các lĩnh vực thiếu hụt, tăng cường liên kết nhà trường - doanh nghiệp - quốc tế.
5) Xây dựng thị trường và thương hiệu quốc gia: Phát triển hệ thống phân phối, ứng dụng thương mại điện tử, tổ chức các sự kiện văn hóa sáng tạo quốc tế, xây dựng chỉ số đo lường phát triển thị trường văn hóa.
6) Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới: Số hóa toàn diện chuỗi giá trị văn hóa, hỗ trợ ứng dụng AI, big data, VR/AR, blockchain, xây dựng nền tảng dữ liệu văn hóa quốc gia phục vụ nghiên cứu và quản trị chính sách.
7) Tăng cường hợp tác quốc tế và ngoại giao văn hóa: Đưa phát triển công nghiệp văn hóa vào các hiệp định hợp tác đa ngành, thành lập các trung tâm văn hóa và công nghiệp sáng tạo Việt Nam ở nước ngoài, tham gia mạng lưới sáng tạo quốc tế để định vị thương hiệu văn hóa Việt Nam trên bản đồ thế giới.
(Còn tiếp)
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất